見出し画像

Rút bảo hiểm một lần 脱退一時金

vnexpress.net/gocnhin

Lúc mới ra trường, tôi gửi tiền vào một quỹ lớn. Mức nộp tương đương 22% thu nhập mỗi tháng, tôi đóng 6% còn cơ quan góp 16%. Quỹ có số dư vào khoảng 36 tỷ USD, và số lượng khách hàng lên đến hàng chục triệu.
大学を卒業したばかりの時、大きな社会保険機関に加入していた。私の毎月の給料から私の0.6割を負担し、企業の1.6割を負担する。この金融機関の残高は360億ドルで顧客の数は数千万人以上がいるという。

Tuy nhiên, quỹ lại không công bố báo cáo tài chính, và chỉ cho phép nhận vốn và lãi hàng tháng sau khi tôi bước qua tuổi nghỉ hưu. Nghĩa là tôi sẽ phải chờ khoảng 35 năm mới biết khoản đầu tư của mình hiệu quả ra sao. Quỹ cũng thường than thở về nguy cơ mất thanh khoản, vỡ quỹ, trong khi không có cam kết đáng kể về rủi ro trượt giá đồng tiền do lạm phát.
Nếu có cơ hội, theo bạn, tôi có nên rút khỏi quỹ hay không?
しかし、この金融機関は決算報告をしないだけではなく、資金と月利をもらえるのは定年の後だ。つまり、自分の投資はどのぐらい利益が得るのかわかるのは35年間を待たなければならない。この機関は流動性紛失のリスクとファンドブレイクなどのことをよく嘆いていながら、インフレでお金の切り下げに対する著しい担保がない。あなたにとって、チャンスがあれば、この金融機関を脱退した方がいいのでしょうか?

Quỹ mà tôi nói đến là Quỹ Bảo hiểm Xã hội (VSS). Băn khoăn của tôi có lẽ cũng là mối bận tâm của hàng triệu lao động, khi dự thảo Luật Bảo hiểm Xã hội sửa đổi đang được lấy ý kiến. Đề xuất được nhiều người quan tâm nhất là quy định chỉ cho phép rút 50% số thời gian đóng góp, nếu người lao động lựa chọn rút một lần.
その金融機関はVSS社会保険機関のことだ。社会保険法改正の原案について、意見を求めるにあたり、おそらく多くの人は私と同じの悩みを持つかもしれない。一番関心を持つ提案は脱退一時金をする場合、その半分だけもらえる規定だと思う。

Dưới góc độ quản lý nhà nước, có lý do chính đáng cho đề xuất đó. Việt Nam đang bước vào thời kỳ dân số già, và nếu hệ thống BHXH không thay đổi, nhà nước sẽ khó gồng gánh nổi kinh phí an sinh xã hội ngày càng tăng. Việc người lao động và chủ lao động đóng đúng và đủ BHXH sẽ góp phần gia cố mạng lưới phúc lợi, đảm bảo quá trình chuyển đổi từ dân số trẻ sang dân số già diễn ra thuận lợi.
国家管理の角度のもと、その提案に正当な理由がある。ベトナムは高齢化の時期に入りつつである。社会保険の仕組みを改正しないと、政府は社会福祉費用の増加を負担するのは難しくなる。労働者と労働使用者がきちんと社会保険料を払うと、福祉の仕組みの補強にサポートし、若人口から老人口への過程をスムーズに保障できるのだ。

Thế nhưng với đa phần người lao động, không mấy ai bận tâm đến câu chuyện vĩ mô. Một bộ phận coi bảo hiểm xã hội là khoản tiền tiết kiệm đề phòng bất trắc. Điều này lý giải cho mức tăng đột biến về số lượng rút bảo hiểm một lần trong hai năm qua, khi ảnh hưởng từ đại dịch và làn sóng sa thải nhân công khiến nhiều người cần tiền để trang trải khó khăn trước mắt, hay gây dựng lại cuộc sống hậu thất nghiệp.
しかし、多くの労働者にとって、マクロに関心を持たないのだ。一部の人たちが社会保険というのはリスクを予防するための預金だと考えている。コロナ禍、また人事解雇の影響で、それらの危機を乗り越えるのに、お金が必要になり、この2年間、脱退一時金を申請する人が増加してきた。

Với một số người khác, bảo hiểm xã hội là gánh nặng, bởi họ mất đi một phần thu nhập hàng tháng mà chưa biết lợi lộc về sau ra sao. Họ ưu tiên thu nhập trước mắt, thay vì thu nhập tương lai. Vì thế, họ thậm chí chấp nhận việc doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm xã hội, dù trên lý thuyết điều này gây thiệt hại cho chính họ.
他の一部の人たちにとって、社会保険は重荷である。なぜなら毎月の給料から引かれたお金は今後どんな利益が得るのかまだ理解できてないからだ。その人たちは将来よりも、目の前にある収入を優先している。そのために、理論的に損失を受けるかもしれないけれど、その人たちが社会保険から逃れる企業すら受け入れている。

Những quan điểm này lý giải vì sao tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội chỉ dừng lại ở mức 38% lực lượng lao động, và số người rút một lần tăng kỷ lục trong hai năm qua.
これらの観点は社会全体の労働者の中でも、社会保険加入の割合はただ3。8割である。そしてこの2年間、脱退一時金を申請する人が急増してきた。

Tôi không nghĩ người lao động không quan tâm đến lương hưu khi về già. Có sổ hưu là một thứ quyền lợi mang tính ám ảnh với người Việt kể từ thời bao cấp. Nhưng ngược lại, chính vì điều này, họ buộc phải cân nhắc giữa nhu cầu hiện tại và ích lợi tương lai với khoản tiền của mình. Cách vận hành của hệ thống bảo hiểm xã hội hiện tại, đặc biệt là Quỹ Bảo hiểm Xã hội (VSS), chưa khiến cho người lao động yên tâm.
私は定年後の年金に関心を持たないと思わない。“助成時代”のベトナム人にとって、年金手帳を持つことは去来的な権利であった。しかしながら、それがあったこそ、自分の金額に対して、現在のニーズと未来の利益を考慮しなければならない。現在、社会保険の仕組みを運用する方法はまだ労働者に安心感を与えられていない、特にVSS社会保険機関だ。

Đầu tiên, dù là một trong những quỹ có tỷ lệ đóng góp cao nhất châu Á, VSS không có sự minh bạch và trách nhiệm giải trình cần thiết. Bạn sẽ thất vọng nếu thử tìm kiếm thông tin hoạt động trên trang chủ của quỹ, dù với danh nghĩa là nhà đầu tư hay khách hàng.
まず、アシアにおいて、もっとも納付金が高い機関の一つとしても、VSSは必要に応じる説明と明確性に責任がない。投資家、または顧客が、この機関のホームページで情報を検索したら、がっかりすると思う。

VSS không công khai báo cáo tài chính giải thích cách thức quản lý và đầu tư, lợi nhuận và thiệt hại, tương xứng với một quỹ có quy mô hàng chục tỷ USD. Theo quy định, Kiểm toán Nhà nước kiểm toán quỹ ba năm một lần, và chỉ đến lúc đó một số thông tin tài chính mới được cung cấp qua báo chí. Khoảng mù về thông tin này, cùng những cảnh báo về khả năng vỡ quỹ, làm tăng thêm những lo lắng về mất sổ hưu hay tiền lương không đuổi kịp lạm phát của người lao động.
VSSは数百億ドルの規模がある機関に準じて、マネジメントの仕組みや投資、利害などを説明するための決算報告を公開していない。規定によって、国の監査は3年に一回監査を行い、その時だけマスコミを通じて金融に関する情報を公開する。この情報に目の見えない事とファンドブレイクの警戒があって、社会保険の紛失やインフレに追いつかない給与などにはるかに懸念してきた。

Sẽ ít nhà đầu tư khôn ngoan nào bỏ tiền cho một sản phẩm như vậy trên thị trường tài chính. Nhiều người lao động cũng thế, nếu họ có lựa chọn khác.
経験のある投資家にとって、金融市場でこのような機関にお金を入れる人があまりいないと思う。多くの労働者も選択肢があれば、そんなことをしないのだ。

Thứ hai, một hệ thống an sinh xã hội hiệu quả cần mang tính công bằng. Bởi ngay cả với những người không có lương hưu, nhà nước vẫn phải bỏ ra một khoản kinh phí nhất định để hỗ trợ khi họ về già. Số người già không có lương hưu ước tính rơi vào khoảng 13 triệu người vào năm 2030.
つぎは、効果のある社会福祉の仕組みに必要なのは平等性だ。なぜなら年金がない人でも、高齢になった時、政府が一定の経費を寄付しなければならないから。2030年、およそ1千300万人は年金を持たないと予測されている。

Hiện nay, chế tài đảm bảo việc đóng góp đúng và đủ bảo hiểm xã hội còn rất hạn chế. Theo thống kê của VSS, trong khoảng 480.000 doanh nghiệp đang hoạt động và có đăng ký mã số thuế trong năm 2015, chỉ có 199.500 doanh nghiệp tham gia BHXH, chiếm khoảng 42% tổng số. Nợ đọng BHXH tính đến cuối năm 2022 lên đến 13 nghìn tỷ đồng. Con số này chưa tính đến lao động phi chính thức trong khu vực chính thức - những người làm việc trong các cơ sở kinh doanh, cơ quan, tổ chức có đăng ký nhưng không được hưởng BHXH. Theo thống kê, lực lượng này rơi vào khoảng 6,4 triệu người tính đến năm 2016.
現在、きちんと社会保険の納付に対して、保証制裁にまだ制限あると思う。VSSの統計によると、2015年に税番号を申請し、運営している48万の企業の中でも、社会保険加入の企業の数はおよそ20万の企業で、4.2割だけを占めている。この数字には社会保険加入の企業でも社会保険を納付しない労働者をまだ含めていない。2016年の統計によって、その人たちの数はおよそ640万人だという。

Nguyên nhân chính của thực trạng trên bắt nguồn từ năng lực giám sát và quản lý của VSS. Toàn ngành BHXH có khoảng 1.500 người làm nhiệm vụ thanh tra - kiểm tra, tính trung bình mỗi cán bộ phụ trách khoảng 100 nghìn lao động. Việc giám sát là bất khả thi. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khuyến nghị tỷ lệ này nên rơi vào khoảng từ 1.000 đến 2.000 lao động cho mỗi cán bộ.
その実態の要因はVSSの管理と監視の力にある。社会保険業の全体は査察の任務を担当する従業員の数はおよそ1千500人がいて、平均一人当たりは10万人の労働者を担当していることから、査察の任務は不可能である。国際労働機関(ILO)の陳情は管理者の一人当たりは労働者1千から2千を担当するといいという。

Một vấn đề nữa là hệ thống BHXH hiện tại vận hành với chức năng của một cơ quan quản lý nhà nước, thay vì một dịch vụ đặt mục tiêu phụng sự khách hàng lên trên hết. Dù có nhiều cải tiến, thủ tục hành chính về BHXH cho cá nhân, tổ chức vẫn gồm 25 thủ tục. Hàng người dằng dặc chờ lấy BHXH một lần ở nhiều địa phương là minh chứng cho sự rườm rà và nhiêu khê đó.
もう一つの問題は現在の社会保険の仕組みは、客への仕えを目的にするのではなく、国の機関として運用されているのだ。改善は多くあったけれど、個人また組織に対して、社会保険の手続きはまだ複雑である。各地方の保険機関の前で長い行列で並んでいることがそれの複雑さを証明したのだ。

Nếu hoạt động như một dịch vụ, VSS có thể đa dạng hóa danh mục và cá nhân hóa quyết định đầu tư tùy theo nhu cầu của người lao động. Hiện tại, phần lớn quỹ (khoảng 86%) được nhà nước vay thông qua các khoản vay trực tiếp tới ngân sách hoặc mua trái phiếu chính phủ. Phần còn lại được gửi vào các ngân hàng thương mại lớn dưới hình thức cho vay hoặc gửi tiết kiệm.
サビース業のような活動であれば、労働者のニーズに応じて、VSSは項目を多様化にしたり、投資決定を個人化にすることができる。

Thay vì hạn chế, VSS nên nới rộng các trường hợp được rút BHXH một lần sang các nhu cầu cấp thiết khác của người lao động như mua nhà ở, chăm sóc sức khỏe, hay đầu tư giáo dục cho con cái. Đây là điều mà những quỹ BHXH thành công trong khu vực Đông Nam Á như Singapore và Malaysia đã thực hiện từ lâu.
制限するよりも、VSSは脱退一時金ができる範囲を拡充したほうがいいと思う。例えば、緊急ニーズは家買、ヘルスケア、子供の教育への投資など。この方法は東南アジアの国であるシンガポールとマレーシアの社会保険機関がずっと前から実施され、成功を果たしていた。

Bảo hiểm xã hội trước tiên và trên hết là quyền lợi của người lao động. Thay vì tập trung tranh cãi về việc nên giữ hay nên rút, sửa đổi lần này cần hướng đến việc phụng sự tốt hơn người lao động và doanh nghiệp. Nếu thấy quỹ vận hành minh bạch, hiệu quả, quyền lợi được đảm bảo, tôi tin ai cũng muốn giữ "tấm lưới an sinh" của mình cho tuổi già. Làm được điều đó, nghĩa vụ về BHXH sẽ được thực hiện mà không cần bất kỳ quy định áp đặt nào
社会保険とは労働者の権利であるもの。脱退一時金をしたほうがいいかどうかの議論よりも、今回の改正は労働者と企業ヘの仕えに向き合う必要である。機関の運用は明確、効率とさらに権利は保証できるならば、誰もが高齢になるまでの“福祉の網”を守り続けると信じている。それを実現できるなら、何も強いる規定なく、社会保険の義務付けを実施できるのでしょう。

この記事が気に入ったらサポートをしてみませんか?